Thứ Tư, 7 tháng 12, 2016

Đi tìm điểm thú vị của "Cơn sốt" Caffe Bene

Ông Trương Tuấn Anh, Phó giám đốc Công ty Caffe Bene Vina, đơn vị ký hợp đồng nhượng quyền gốc để đưa thương hiệu này của Hàn Quốc vào Việt Nam, cho biết: “Đối với các thương hiệu đã có mặt trên thị trường, Caffe Bene Vietnam không xem họ là đối thủ, mà là những người hàng xóm cùng kinh doanh ở một lĩnh vực, chia sẻ các đối tượng khách hàng ở cùng phân khúc để mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam nhiều sự lựa chọn thú vị hơn”.
Trước đó, ngày 24/8, hơn 2.000 người, đa phần là giới trẻ đã đến tham dự buổi khai trương cửa hàng Caffe Bene đầu tiên tại Việt Nam nằm ở khu vực trung tâm TP.HCM (ngã tư Đồng Khởi - Mạc Thị Bưởi).
Khai trương cửa hàng Caffe Bene đầu tiên tại Việt Nam
Sau khai trương đến nay, cửa hàng đã đón tiếp các khách hàng thuộc nhiều phân khúc như giới trẻ, dân văn phòng, gia đình…, với nhu cầu khám phá, thư giãn, thưởng thức các món ăn/thức uống, làm việc ... Các sản phẩm như Bingsu và bánh Waffle luôn trong tình trạng “cháy hàng”.
Với số lượng khách đáng mong chờ như hiện tại, có thể nói Caffe Bene đang là một “hiện tượng” tại thị trường Việt Nam, trong bối cảnh hầu hết các thương hiệu cà phê nổi tiếng trên thế giới đã có mặt ở đây.
Tuy nhiên, để có một chỗ đứng bền vững bên cạnh các tên tuổi lớn trong cùng ngành, “tân binh” đến từ xứ sở Kim Chi còn nhiều việc phải làm, mà mục tiêu cuối cùng là làm hải lòng khách hàng.
Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường cà phê Việt Nam buộc các thương hiệu Trung Nguyên, Highlands Coffee, Gloria Jean’s Coffee, The Coffee Bean&Tea Leaf, Starbucks phải tự “làm mới” hoặc có những chiến lược thích nghi.
Từng định vị là cà phê phục vụ người có thu nhập cao, nhưng những năm gần đây, Highlands Coffee đã hướng đến phân khúc đại chúng với giá khá mềm, đồng thời liên tục tung ra nhiều thức uống mới phù hợp với nhu cầu người Việt Nam.
Gloria Jean’s Coffee cũng thay đổi theo mô hình mới, đó là bán thêm cà phê gói và máy pha cà phê tại quán. Thương hiệu này còn thử nghiệm mô hình bếp mở, làm đồ ăn tại chỗ.
Gần đây Trung Nguyên đã nâng cấp gần 60 cửa hàng ở các tỉnh - thành, nâng cao dịch vụ với tiêu chí để khách hàng không chỉ được thưởng thức hương vị cà phê tốt nhất trong không gian sáng tạo, thư giãn mà còn được trải nghiệm cách pha chế cà phê theo 5 nền văn hóa là Ethiopia, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Nhật Bản và Việt Nam.
Trong tình hình đó, “tân binh” Caffe Bene sẽ có chiến lược gì để tồn tại và phát triển?
Ông Trương Tuấn Anh, Phó giám đốc Công ty Caffe Bene Vina, đơn vị ký hợp đồng nhượng quyền gốc để đưa thương hiệu này của Hàn Quốc vào Việt Nam, cho biết: “Đối với các thương hiệu đã có mặt trên thị trường, Caffe Bene Vietnam không xem họ là đối thủ, mà là những người hàng xóm cùng kinh doanh ở một lĩnh vực, chia sẻ các đối tượng khách hàng ở cùng phân khúc để mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam nhiều sự lựa chọn thú vị hơn”.
Chiến lược của Caffe Bene Vina là trong vòng 5 năm sẽ có 300 cửa hàng, với định vị trung - cao cấp, không phân biệt độ tuổi hay giới tính mà hướng đến mục tiêu làm cho khách hàng thoải mái với không gian và hài lòng với những sản phẩm/dịch vụ mà thương hiệu này cung cấp.
chủ yếu phục vụ theo thị hiếu của giới trẻ từ 18-30 tuổi và thay đổi theo mùa.
Tại buổi khai trương, Caffe Bene đã tạo hiệu ứng thương hiệu khá tốt khi mời diễn viên Hàn Quốc Lee Jong Suk đến Việt Nam. Nhờ đó đã thu hút hàng ngàn khách hàng trẻ đến tham dự.
Nắm bắt thị hiếu của giới trẻ Việt Nam là “cảm tình” với phong cách Hàn, Caffe Bene xác định được lợi thế cạnh tranh của mình. Họ đã đem đến đây những thức uống được ưa chuộng ở Hàn Quốc như Bingsu, Macchiatto, Green tea Frappeno, Waffle, Honey Bread, Monkey Bread…, chế biến một cách sáng tạo để hợp với “gu” của người Việt.
Một phong cách Hàn Quốc tại Việt Nam
Phó giám đốc Trương Tuấn Anh khẳng định: “Sắp tới, chúng tôi sẽ đưa thêm các món ăn và thức uống vào thực đơn theo khẩu vị người Việt, ngoài ba nhóm sản phẩm chính theo mô hình kết hợp cửa hàng bánh - cà phê - nước uống. Hiện, Caffe Bene có hơn 60 loại món ăn, thức uống khác nhau như Waffle (chỉ nướng khi có đơn hàng từ khách), Cheese cake và bingsu (loại đá bào trái cây, loại hạt tùy theo hương vị, nước đá xử lý bằng kỹ thuật đặc biệt) là nhóm thức uống đang được giới trẻ Việt Nam ưa chuộng”.
Ông Hồ Minh Hoàng, Giám đốc Caffe Bene Việt Nam cho biết thêm: Người Việt Nam thích vào quán cà phê làm việc, thư giãn, gặp gỡ bạn bè, nên thiết kế cửa hàng của chúng tôi cũng kết hợp đa văn hóa một cách uyển chuyển, nhất là phong cách châu Âu, nhưng hướng đến sự trẻ trung và phục vụ nước uống cho giới trẻ theo mùa, cùng với đó là các tiện ích tạo sự thoải mái như chỗ ngồi, ánh sáng, wifi, không gian thoáng, có dãy bàn dài nhìn ra phố.
Một khác biệt nữa cũng được xem là lợi thế cạnh tranh của Caffe Bene, đó là công thức pha chế theo phương pháp "rang trước - trộn sau". Caffe Bene được rang ở nhiệt độ vừa phải nên hạt cà phê giữ được độ tươi, giữ được mùi vị của từng loại cà phê, trong khi ở Việt Nam thông thường cà phê được rang kỹ, khiến hạt cà phê có màu đen tuyền, vị đắng.
Về nguồn nguyên liệu, Caffe Bene hiện nay đã đầu tư một trang trại trồng cà phê tại Brazil, nên mọi nguyên liệu sẽ được nhập khẩu từ Brazil. "Chúng tôi đang xem xét khả năng nhập nguyên liệu cà phê từ Việt Nam, nhưng cần thời gian", ông Hoàng cho biết.
Vào Việt Nam hơi muộn, nhưng với kinh nghiệm phát triển thị trường ở 12 quốc gia khác, Caffe Bene hứa hẹn sẽ là đối thủ “nặng ký” của các tên tuổi lớn cùng ngành trên thị trường Việt Nam.

Chia sẻ cùng bạn tin vui đối với kinh doanh trực tuyến: phát triển vượt bậc

Khuynh hướng này được cho là sẽ tiếp tục trong những năm sắp tới. Người tiêu dùng ngày càng giàu có, các kết nối tốc độ cao khắp nơi và các đề nghị trực tuyến hấp dẫn sẽ kết hợp với nhau gây tác động trong những năm sắp tới. Khi khuynh hướng này tiếp tục, kinh doanh trực tuyến sẽ mang đến một cơ hội khổng lồ cho các nhà bán lẻ trên mạng cũng như những nhà điều hành khác để khai thác mở rộng danh bạ người tiêu dùng trực tuyến.
Theo báo cáo mới nhất về tình hình kinh doanh trực tuyến do Nielsen, công ty nghiên cứu thông tin và nhận thức người tiêu dùng toàn cầu thực hiện với sự tham gia của 30.000 người sử dụng internet tại 60 nước, cho thấy, sự gia tăng sở hữu các thiết bị có kết nối trong khu vực Đông Nam Á đã đặt ra nền tảng cho sự phát triển vượt bậc của ngành bán lẻ trực tuyến, và số lượng người tiêu dùng sử dụng dịch vụ mua hàng trực tuyến tăng một cách đáng kể trong vòng 2 năm qua.
Tại khu vực Đông Nam Á, các dịch vụ về du lịch là sản phẩm được đặt mua trực tuyến nhiều nhất, kế đến là vé xem phim, vé xem nhạc kịch, vé tham dự triển lãm cũng như vé xem các trận đấu thể thao. Người Singapore dẫn đầu trên toàn thế giới trong việc đặt mua hàng trực tuyến, bao gồm vé máy bay, các dịch vụ khách sạn và đặt phòng.
Có đến 7 trong số 10 người Singapore (70%) dự tính mua vé máy bay trực tuyến và 69% dự tính đặt phòng khách sạn trong 6 tháng sắp tới. Tỷ lệ người tiêu dùng Malaysia đặt mua hàng trực tuyến cũng khá cao khi đứng thứ nhì trên thế giới trong việc đăt các tour du lịch và khách sạn, và đứng thứ 3 thế giới trong việc dự tính đặt vé máy bay và vé tham dự các sự kiện trực tuyến.
Khoảng phân nửa người tiêu dùng Indonesia, Philipplines và Việt Nam dự tính đặt mua các dịch vụ du lịch và vé tham dự sự kiên trực tuyến. Tại Việt Nam, theo ông Đoàn Duy Khoa, Giám đốc bộ phận Nghiên cứu Người tiêu dùng của Nielsen Việt Nam, năm 2014 chứng kiến sự phát triển vượt bậc của ngành kinh doanh trực tuyến.
Các hoạt động giải trí như du lịch (bao gồm vé máy bay và khách sạn) là những lĩnh vực tiềm năng khi có đến phân nửa người tiêu dùng Việt Nam dự tính đặt các dịch vụ này. Đa số người tiêu dùng Việt Nam nghiên cứu và tìm kiếm các thông tin về sản phẩm và dịch vụ trên mạng trước khi quyết định mua hàng tại các cửa hàng.
Kết quả cuộc khảo sát cho thấy, hạng mục các mặt hàng mua sắm trực tuyến đã thay đổi một cách căn bản trong vòng 2 năm qua. Trong năm 2012, máy tính, phần mềm trò chơi, điện thoại di động, quần áo và đồ phụ kiện được xếp vào hàng các mặt hàng được đặt mua trực tuyến thường xuyên. Hiện nay, danh mục các măt hàng này vẫn thu hút được người tiêu dùng Đông Nam Á khi họ thường xuyên truy cập internet và đặt hàng.
Cũng theo khảo sát này, người tiêu dùng Philippines, Việt Nam và Singapore có khuynh hướng đặt mua hàng trực tuyến nhiều hơn so với các nước. Đáng chú ý là phần lớn người tiêu dùng khu vực Đông Nam Á xem mạng internet như là một công cụ để kiểm tra các thông tin về sản phẩm cho các quyết định mua hàng thông thường.
Cùng với sự tiện ích của việc mua sắm trực tuyến, các thông tin sẵn có về sản phẩm, các phản hồi và so sánh giá cả là các yếu tố quyết định cho việc mua sắm trực tuyến của những người tiêu dùng không có nhiều thời gian, nhưng quan trọng hơn, các trang mạng bán lẻ cũng mang đến những kinh nghiệm mua sắm thú vị.
Tuy nhiên, mức độ người tiêu dùng tìm kiếm các sản phẩm trên mạng trước quyết định mua hàng theo cách thông thường báo hiệu cho các nhà bán lẻ việc họ nên chắc chắn không bỏ qua phần thương mại điện tử trong chiến lược kết nối tổng thể.
Khi nói đến các thiết bị kết nối được sử dụng để mua sắm trực tuyến nhiều nhất thì dù máy tính để bàn đang chiếm ưu thế ở phần lớn các nước trong khu vực Đông Nam Á nhưng việc sử dụng điện thoại di động để mua sắm trực tuyến cũng đang trở nên phổ biến.
Người tiêu dùng tại Philippines, Indonesia, Việt Nam và Thái Lan được xếp vào danh sách Top 10 toàn cầu trong việc sử dụng điện thoại di động để mua sắm trực tuyến. Máy tính bảng cũng được sử dụng như là công cụ để xem các trang mạng bán lẻ.
Sự gia tăng trong việc sở hữu các thiết bị có kết nối tại Đông Nam Á là một trong những lý do chính tác động đến thói quen mua sắm của người tiêu dùng trong khu vực. Hiện Việt Nam đứng hàng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á trong việc sử dụng điện thoại di động để mua sắm trực tuyến (58%).
Khuynh hướng này được cho là sẽ tiếp tục trong những năm sắp tới. Người tiêu dùng ngày càng giàu có, các kết nối tốc độ cao khắp nơi và các đề nghị trực tuyến hấp dẫn sẽ kết hợp với nhau gây tác động trong những năm sắp tới. Khi khuynh hướng này tiếp tục, kinh doanh trực tuyến sẽ mang đến một cơ hội khổng lồ cho các nhà bán lẻ trên mạng cũng như những nhà điều hành khác để khai thác mở rộng danh bạ người tiêu dùng trực tuyến.
Chìa khóa để dẫn đầu là việc xác định và hiểu nhu cầu của người tiêu dùng, phát triển cùng với sự tiến hóa của các hành vi mua sắm trực tuyến và áp dụng các chiến thuật có thể xây dựng được mối quan hệ lâu dài với người tiêu dùng".

Giành lại thị trường 5.000 tỷ của gốm sứ nội nước nhà

Nhưng để có được thị phần này, Minh Long đã thực hiện một chiến lược toàn diện từ đổi mới công nghệ sản xuất cho đến xây dựng hệ thống phân phối, tiếp cận người tiêu dùng. Từ năm 2010 đến nay, trong khi các DN khác co cụm lại thì Minh Long 1 đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu sản xuất, chủ động liên kết với các đơn vị khác để mở rộng nguồn tiêu thụ sản phẩm.
Sản phẩm Minh Long 1 đang thắng thế ở phân khúc sứ gia dụng cấp cao
Chinh phục thị trường cấp thấp
Hiện cả nước có khoảng 290 cơ sở sản xuất đồ sứ gia dụng. Ba khu vực gốm sứ có thương hiệu lớn là gốm sứ Bình Dương, gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) và gốm sứ Hải Dương.
Các thống kê cho thấy, năm 2012, tổng doanh thu toàn thị trường gốm sứ gia dụng Việt Nam đạt khoảng 5.600 tỷ đồng nhưng các cơ sở sản xuất trong nước chỉ chiếm 30%, 70% còn lại thuộc về các doanh nghiệp (DN) nước ngoài, trong đó đa phần là của TQ.
Các DN Việt Nam thừa nhận, hàng gia dụng gốm sứ trong nước nhiều năm liền thua hàng TQ vì các cơ sở sản xuất chủ yếu phát triển trên nền tảng thủ công, manh mún, công nghệ lạc hậu. Mặc dù đã có DN đầu tư thiết bị sản xuất với công nghệ hiện đại, quy mô lớn nhưng số lượng DN như vậy chỉ đếm trên đầu ngón tay như Minh Long 1, Sứ Hải Dương, Chuan Kuo Việt Nam (CK)...
Gốm sứ TQ nhiều năm liền là nổi ám ảnh của các cơ sở sản xuất trong nước khi xuất hiện ở tất cả các tỉnh - thành, từ Bắc vào Nam. Những chén, đĩa, bình ly, thậm chí là lọ hoa... xuất xứ TQ được nhập tiểu ngạch hiện diện gần như trong tất cả các gia đình ở thành thị cho đến nông thôn.
Phải thừa nhận là so với chén đĩa do các cơ sở nhỏ trong nước sản xuất thì chén đĩa "made in China" có mẫu mã đa dạng hơn nhiều mà giá lại rẻ. Trong khi đó, sản phẩm của các DN lớn trong nước, có đầu tư bài bản thì giá lại cao hơn rất nhiều so với hàng Tàu.
Theo phân tích của ông Lý Ngọc Minh, Tổng giám đốc Công ty Minh Long 1, trong sản xuất gốm sứ thì nung là công đoạn chiếm nhiều chi phí nhất và chất lượng sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc hoàn toàn vào quy trình này. Hàng TQ giá rẻ vì được nung ở nhiệt độ thấp nên tiết giảm được chi phí.
Trong khi hàng sứ gia dụng tốt của Việt Nam nung ở nhiệt độ 1.280 độ C (hàng Minh Long 1 nung đến 1.380 độ C) thì hàng của TQ chỉ ở mức 800 độ C. Do nhiệt độ thấp nên hàng TQ có độ bền thấp đó là chưa kể sản phẩm còn chứa chì trong lớp hoa văn nhẹ lửa.
Không chỉ bị cạnh tranh bởi hàng TQ, gần đây, DN trong nước còn bị chia thị phần bởi hàng nhập từ Mexico, Thái Lan... Không khốc liệt như với hàng TQ, nhưng hàng nhập khẩu từ những nước này vào hệ thống phân phối hiện đại cũng gây áp lực không nhỏ cho hàng Việt.
Trước thực tế đó, từ vài năm nay, các DN gốm sứ của Việt Nam như Minh Long 1, Sứ Hải Dương, CK... đang dốc toàn lực để đầu tư, sản xuất để giành lại thị trường. Bắt đầu tư năm 2007, Minh Long 1 tăng cường đầu tư mạnh cho sản xuất và đầu tư vào công nghệ được xếp vào vị trí số 1.
Với những đầu tư bài bản, năm 2011, doanh thu của Công ty đạt 450 tỷ đồng. Năm 2012, Công ty đã đưa ra thị trường (cả xuất khẩu) 20 triệu sản phẩm, tăng 25-30% so với năm 2011. Cùng với sản lượng tăng, doanh thu của Công ty cũng tăng 20%. Trong khi đó, Công ty CP Sứ Hải Dương tái cấu trúc toàn bộ hoạt động.
Nhờ áp dụng giải pháp quản lý đồng bộ, đặc biệt chú trọng tới việc đầu tư vào đội ngũ quản lý và kỹ thuật, sản phẩm của Sứ Hải Dương đã giảm được giá thành và tăng năng suất, chất lượng.
Ông Nguyễn Đỗ Hà, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty CP Sứ Hải Dương, cho biết, hiện sứ Minh Long đang chiếm lĩnh phân khúc cấp cao, CK nắm phân khúc trung cấp, còn Sứ Hải Dương chiếm ưu thế ở phân khúc trung bình khá.
Thắng ở phân khúc cấp cao
Trong khi phân khúc sứ gia dụng trung và bình dân đang từng bước giành lại thị trường thì phân khúc cao cấp đã thuộc về DN trong nước. Và thị phần này gần như là "cuộc chơi riêng" của Công ty Minh Long 1. Ông Lý Ngọc Minh tự tin cho biết, từ khi chú trọng đến tiêu thụ nội địa, Minh Long đã từng bước chinh phục được thị trường.
Hiện nay, tỷ trọng tiêu thụ nội địa chiếm 20% trong tổng sản lượng tiêu thụ của Công ty. Thế nhưng, điều đáng quan tâm là ở phân khúc hàng sứ tiêu dùng cao cấp cho gia đình, sản phẩm của Minh Long 1 chiếm đến 80% thị phần trong cả nước. 20% còn lại là hàng sứ giá dụng nhập từ Đức, Pháp, Ý, Mỹ...
Nhưng để có được thị phần này, Minh Long đã thực hiện một chiến lược toàn diện từ đổi mới công nghệ sản xuất cho đến xây dựng hệ thống phân phối, tiếp cận người tiêu dùng. Từ năm 2010 đến nay, trong khi các DN khác co cụm lại thì Minh Long 1 đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu sản xuất, chủ động liên kết với các đơn vị khác để mở rộng nguồn tiêu thụ sản phẩm.
Cụ thể, mỗi năm Minh Long dành đến hơn 100 tỷ đồng để nhập máy móc thiết bị hiện đại từ Đức, Pháp, Ý, Nhật... thay thế, cải tiến thiết bị cũ để tiết giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Sau hơn hai năm nghiên cứu, đầu tư cho đổi mới sáng tạo, cuối năm 2013, Minh Long 1 đã đưa ra thị trường 250 mã hàng thương hiệu Lys Horeca dành cho phân khúc nhà hàng, khách sạn.
Sản phẩm này đánh đúng nhu cầu của những nhà hàng khách sạn cấp trung nên được tiêu thụ mạnh. Hiện sản phẩm mang thương hiệu gốm sứ Minh Long 1 có trên 15.000 chủng loại, riêng hàng xuất khẩu có trên 3.000 mẫu mã.
Dù đang đứng đầu ở phân khúc cao cấp nhưng Minh Long 1 vẫn không ngừng đầu tư, cải tiến cũng như thực hiện mọi biện pháp để giữ vững thị phần. Minh Long 1 đã và đang hợp tác với Hiệp hội Du lịch TP.HCM (Hiệp hội), liên kết với các đơn vị trong lĩnh vực nhà hàng, khách sạn thuộc Hiệp hội để phân phối và quảng bá sản phẩm.
Không những thế, Minh Long 1 còn tổ chức cuộc thi ẩm thực ba miền mà giải thưởng lên đến cả tỷ đồng. Để quảng bá hơn nữa thương hiệu Minh Long 1 đến với người tiêu dùng trong nước và quốc tế, DN này đầu tư xây dựng nhà xưởng rộng 120.000m2 tại Bình Dương, trong đó có cả "bảo tàng gốm sứ" để du khách có thể tìm hiểu về lịch sử gốm sứ qua các hiện vật...
Và cách bán hàng cũng được "công nghệ hóa" thông qua mạng, qua kênh thương mại điện tử song song với bán hàng qua hệ thống cửa hàng, đại lý.
Ông Lý Ngọc Minh cho biết, những biện pháp này không chỉ giúp DN đẩy mạnh tiêu thụ mà còn khiến khách du lịch trong và ngoài nước biết đến thương hiệu Minh Long 1. Và quan trọng hơn, hiện gốm sứ Minh Long 1 đã đánh bại được hàng TQ và hoàn toàn chiếm lĩnh được phân khúc hàng cao cấp.
Mặc dù hiện nay gốm sứ TQ, đặc biệt là gốm sứ Giang Tây vẫn bày bán ở nhiều nơi nhưng với những đầu tư và chiến lược bài bản, các DN Việt đang từng bước dành lại thị trường lớn này.

Cùng tìm hiểu xu hướng doanh nghiệp may chuyển hướng

Đây là lý do khiến một số DN vừa và nhỏ VN hiện vẫn chưa có đủ đơn hàng đến hết năm. “Nhìn chung xu hướng các đơn hàng gia công đơn giản, dễ làm đang dịch chuyển sang những nơi có giá nhân công rẻ, chi phí thấp như Bangladesh, Myanmar, Campuchia… Vì vậy, đây là lúc các DN phải tự mình nâng cấp về chất lượng để tăng sức cạnh tranh. Từ đó có thể tìm kiếm được các đơn hàng cao hơn về kỹ thuật lẫn giá trị và giữ chân được khách hàng lâu hơn”, Chủ tịch Agtek Phạm Xuân Hồng nói.
Trong buổi tham quan của các doanh nghiệp hội viên thuộc Hội Dệt may - Thêu đan TP.HCM (Agtek) mới đây tại Công ty may Sài Gòn 3, nhiều ông chủ doanh nghiệp đã phải trầm trồ ngưỡng mộ mức giá gia công 2,6 - 2,8 USD/quần của công ty này.
Đó là vì giá gia công cùng sản phẩm tương tự ở doanh nghiệp (DN) khác chỉ từ 2 - 2,3 USD/quần. Thậm chí, các DN cho biết ở các nhà máy tại các tỉnh miền Trung, giá chỉ khoảng 1,6 USD/quần.
Các DN may đang chuyển hướng sang đầu tư sản xuất các đơn hàng kỹ thuật cao - Ảnh: D.Đ.M
Nguyên nhân giúp Công ty Sài Gòn 3 có giá gia công cho đối tác nước ngoài cao là công ty này đạt được những yêu cầu của đối tác, không cần công ty thứ 3 kiểm tra chất lượng hàng hóa trước khi xuất khẩu. Tuy nhiên, các DN may nhỏ lại đang đối mặt với sự cạnh tranh từ các nước trong khu vực đang ngày càng gay gắt.
Chẳng hạn với Campuchia, theo Agtek, lương bình quân của công nhân ngành may nước này chỉ khoảng 100 USD/người/tháng, bằng 50% so với lương bình quân của công nhân may tại VN, các chi phí khác như bảo hiểm, phí công đoàn... cũng rất thấp... dẫn đến nước này đang cạnh tranh mạnh về giá gia công thấp.
Đây là lý do khiến một số DN vừa và nhỏ VN hiện vẫn chưa có đủ đơn hàng đến hết năm. “Nhìn chung xu hướng các đơn hàng gia công đơn giản, dễ làm đang dịch chuyển sang những nơi có giá nhân công rẻ, chi phí thấp như Bangladesh, Myanmar, Campuchia… Vì vậy, đây là lúc các DN phải tự mình nâng cấp về chất lượng để tăng sức cạnh tranh. Từ đó có thể tìm kiếm được các đơn hàng cao hơn về kỹ thuật lẫn giá trị và giữ chân được khách hàng lâu hơn”, Chủ tịch Agtek Phạm Xuân Hồng nói.
Thời điểm bước ngoặt
Theo ông Lê Quang Hùng - Chủ tịch HĐQT Công ty CP may Sài Gòn (Garmex) - lao động ngành may của VN không còn ở giai đoạn giá rẻ nên khó cạnh tranh với nhiều nước mới nổi lên trong ngành này. Tuy nhiên, các đối tác nước ngoài vẫn công nhận công nhân VN khéo tay, sản xuất được những sản phẩm cần độ khó cao.
Đây chính là cơ hội để các DN đầu tư chuyển đổi từ việc thực hiện các sản phẩm đơn giản sang những sản phẩm phức tạp hơn. Ví dụ một áo thun đơn giản có giá gia công khoảng 1,5 USD/cái trong khi một áo jacket có giá gia công đến 5 - 7 USD/cái, thậm chí có những sản phẩm đơn giá trên 10 USD/cái. Bởi nếu một áo thun chỉ có vài chục chi tiết thì một áo jacket có đến 300 - 400 chi tiết nên độ khó càng cao, yêu cầu công nhân có tay nghề và kinh nghiệm...
Còn theo ông Phạm Xuân Hồng, muốn nhận được các đơn hàng khó thì các DN phải nỗ lực đáp ứng những tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe nhất. Chẳng hạn có đối tác yêu cầu đến mức sợi chỉ cũng phải cắt như thế nào... và khi đã đạt được, tạo lòng tin cho đối tác thì những đơn hàng giá trị cao sẽ đến.
Ông Phùng Đình Ngọ - Giám đốc Công ty may Bình Hòa - cho biết những DN nhỏ như công ty của ông cũng nhận thức được sự cần thiết phải thay đổi, tuy nhiên khó khăn là DN rất thiếu vốn để có thể mở rộng quy mô, đầu tư thiết bị hay đội ngũ kỹ thuật. “Các DN nhỏ thường không đủ tài sản để thế chấp nên vay vốn ngân hàng không được. Từ đó bị bó tay trong việc cải tiến nhà xưởng, nâng cao chất lượng...
Các chính sách của nhà nước cũng không hỗ trợ cho DN nhỏ. Ví dụ các DN lớn ký hợp đồng trực tiếp với nước ngoài thì thuế VAT bằng không. Nhưng DN nhỏ nhận gia công lại từ các DN lớn trong nước thì phải đóng ứng trước thuế VAT 10% và sau đó mới được hoàn lại. Trong khi thời gian hoàn thuế khá lâu khiến các DN nhỏ càng gặp khó khăn về nguồn vốn. Vì vậy, chúng tôi mong nhà nước sẽ có những chính sách hỗ tốt hơn cho DN vừa và nhỏ để có thể tăng sức cạnh tranh”, ông Ngọ nói.

Chia sẻ tin vui đối với ván sàn gỗ Việt Nam trước cơ hội "thoát sàn"

Báo cáo mới đây của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES) cho thấy đồ gỗ Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường của 120 nước trên khắp thế giới. Nhật Bản, EU và Mỹ là những thị trường dẫn đầu mức tiêu thụ sản phẩm gỗ Việt Nam. Ba thị trường này chiếm hơn 70% tổng sản phẩm đồ gỗ XK của Việt Nam, trong đó EU chiếm 28%, Nhật Bản chiếm 12,8%, riêng thị trường Mỹ chiếm đến 41% và giữ ở ngôi vị hàng đầu về mức tăng trưởng nhập khẩu đồ gỗ Việt Nam những năm gần đây.
Sau khi Mỹ áp lệnh chống bán phá giá với mặt hàng đồ gỗ Trung Quốc, nhiều nhà máy chế biến đồ nội thất đã di chuyển sang Việt Nam. Ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn. Vậy điều gì sẽ xảy ra với lĩnh vực sản xuất sàn gỗ?
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, tính từ đầu năm đến hết tháng 7/2014, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 5,7 tỷ USD mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ sang gần 40 nước trên thế giới. Dự kiến năm 2014, kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ đạt 6,5 tỷ USD tăng 17% so với năm 2013.
Báo cáo mới đây của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES) cho thấy đồ gỗ Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường của 120 nước trên khắp thế giới. Nhật Bản, EU và Mỹ là những thị trường dẫn đầu mức tiêu thụ sản phẩm gỗ Việt Nam. Ba thị trường này chiếm hơn 70% tổng sản phẩm đồ gỗ XK của Việt Nam, trong đó EU chiếm 28%, Nhật Bản chiếm 12,8%, riêng thị trường Mỹ chiếm đến 41% và giữ ở ngôi vị hàng đầu về mức tăng trưởng nhập khẩu đồ gỗ Việt Nam những năm gần đây.

Diện mạo ngành gỗ ván sàn

Hội đồng xuất khẩu gỗ cứng Hoa Kỳ (AHEC) đã xếp Việt Nam vào nước đứng đầu trong khối ASEAN về khối lượng sản phẩm xuất khẩu gỗ, cũng như uy tín và mặt hàng đồ gỗ. Ngành gỗ Việt Nam cũng đang trong quá trình đàm phán với EU về Hiệp định Đối tác Tự nguyện (VPA).
Khác với ngành sản xuất đồ gỗ nội thất bị chi phối bởi các nhà đầu tư Đài Loan, Trung Quốc (ước tính kiểm soát hơn một nửa hoạt động sản xuất), lĩnh vực sàn gỗ bị chi phối bởi các nhà sản xuất Việt Nam từ Bắc vào Nam. Họ là những nhà sản xuất lớn nhỏ, đa dạng hình thức kinh doanh từ xuất khẩu là chính chuyển sang tiêu thụ trong nước. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng xấu đến rất nhiều thị trường sàn gỗ phương Tây, đã có bằng chứng cho thấy các nhà sản xuất sàn gỗ đang chuyển từ xuất khẩu sang kinh doanh trong nước.
Sự gia tăng của khách du lịch và ngành công nghiệp giải trí tại Việt Nam cũng như sự quan tâm đến thiết kế, phong cách nội thất theo đó ngày càng cao, điều này đã lái thị trường trong nước tới nhu cầu sàn gỗ cứng thực sự.
Chưa có con số hoàn toàn chắc chắn có bao nhiêu nhà máy sản xuất sàn gỗ ở Việt Nam nhưng với sự xuất hiện của ít nhất hàng chục nhà máy - một vài tại Hà Nội/Hải Phòng, một số ở miền Trung và hầu hết ở miền Nam quanh TP.HCM - cũng đã phần nào cho thấy diện mạo của ngành công nghiệp ván sàn Việt Nam.
Phần lớn các nhà máy sàn gỗ ở Việt Nam là các xưởng cưa gỗ, cơ bản sản xuất ván sàn, tới các nhà máy sản xuất ván sàn với thiết kế tinh vi, xuất khẩu sang một số thị trường chính đặc biệt là Nhật Bản.
Điều trái ngược đáng chú ý là một số nhà máy thiết bị đã cũ, lỗi thời, (sử dụng chủ yếu máy móc của Đài Loan, Trung Quốc) nhiều thiết bị cần sửa chữa và bảo trì, trong khi một số máy móc chế biến gỗ khác của Đức, Áo và Ý sản xuất sản phẩm chất lượng cao được bán cho các thị trường xuất khẩu chủ lực. Nguyên liệu gỗ được sử dụng để làm ván sàn cũng rất đa dạng, đa phần là các loại gỗ ở Việt Nam và các nước trong khu vực (Campuchia và Lào) vẫn đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp sàn gỗ hiện nay.
Gần đây, xu hướng sử dụng gỗ cứng trong sản xuất ván sàn cũng đã trở nên phổ biến hơn ở hai miền Bắc và Nam, như gỗ sồi Mỹ, được nhập khẩu chủ yếu ở miền Nam, gỗ tần bì được nhập chủ yếu ở miền Bắc.
Gỗ óc chó Mỹ cũng được sử dụng làm ván sàn phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, một trong các thị trường yêu thích của sản phẩm gỗ Việt Nam. Các nhà nhập khẩu Nhật Bản đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt tuân thủ theo quy định FSC, chính là thước đo cho các sản phẩm xuất khẩu sang đất nước mặt trời mọc này.

Tìm cơ hội trong khó khăn

Lĩnh vực sàn gỗ có thể rất nhỏ, nhưng vô cùng đa dạng. Quốc gia với trên 90 triệu dân và điều kiện sống ngày càng được nâng cao thì thị trường ván sàn nội địa có thể phát triển nhanh chóng cùng với các cơ hội xuất khẩu mở ra cho các nhà sản xuất Việt Nam.
Cơ hội xuất khẩu đang mở ra cho các nhà sản xuất ván sàn gỗ Việt Nam
So sánh với năng lực sản xuất sàn gỗ Trung Quốc, thì còn rất nhiều điều phải làm, tuy nhiên đã có dấu hiệu tăng trưởng lĩnh vực này ở Việt Nam. Tìm hiểu một số các nhà máy sản xuất ván sàn ở Việt Nam cho thấy sự khác nhau lớn giữa các nhà sản xuất về chủng loại và chất lượng với nhiều sự lựa chọn hơn. Một số nhà máy bắt đầu với công việc sử dụng một số loài gỗ trong nước và nhập khẩu, để sản xuất ván sàn đặc. Các nhà máy khác nhập khẩu gỗ bulô của Nga để sản xuất ván ép theo đơn đặt hàng.
Nhằm làm giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu và chú trọng vào việc sử dụng gỗ rừng trồng trong nước để tiết kiệm ngoại tệ, tạo công ăn việc làm cho lao động ở nông thôn, hướng tới sử dụng bền vững nguồn nguyên liệu tự cung tự cấp, Bộ NN&PTNT đã thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp nhằm tăng diện tích đất lâm nghiệp và khuyến khích sản xuất thương mại.
Chính sách này có thể tác động tới lĩnh vực sàn gỗ, thông qua khuyến khích đầu tư vào sản xuất sàn gỗ sử dụng nguyên liệu địa phương và giảm thiểu lượng gỗ nhập khẩu.
Một nhà bình luận Việt Nam cho biết "lý do chính khiến ngành công nghiệp sàn gỗ cũng như ngành công nghiệp đồ nội thất nói chung không phát triển được là do sản xuất ván sàn, đồ nội thất có giá trị gia tăng thấp không bù đắp được các chi phí về nguyên liệu, sản xuất, lợi thế duy nhất của Việt Nam là lao động giá rẻ có thể bù đắp cho các chi phí khác".
Tuy nhiên, sự tăng trưởng dự kiến của thị trường trong nước có thể vẫn khuyến khích một số doan nghiệp đầu tư hơn nữa vào lĩnh vực sàn gỗ tại Việt Nam.
Bà Đỗ Thị Kim Loan - Tổng giám đốc Công ty Sản xuất ván sàn Sao Nam, thành viên Hiệp hội Ván sàn Hoa Kỳ:Rất nhiều đơn hàng từ Mỹ
Từ nay đến năm 2016 tốc độ xây dựng nhà ở Mỹ tăng rất nhanh. Phong cách kiến trúc cũng thay đổi nhiều từ kết cấu đến vật liệu xây dựng, trang trí nội thất. Nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, ván sàn đã có thể thay thế được nhiều loại vật liệu, trang trí nội thất khác nhờ vào sự đa dạng, tiện dụng và đúng quy cách. Công ty đã xây dựng, liên kết được khoảng 10 nhà sản xuất để chia sẻ thông tin, đơn hàng, nguyên liệu, vừa bảo đảm uy tín và nâng dần năng lực sản xuất - kinh doanh bởi đơn hàng khá tốt, tuy nhiên công ty phải tìm cách từ chối để tránh quá tải.
Ông Nguyễn Quốc Khanh Chủ tịch Hội mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (Hawa):Mặt hàng gỗ đang hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan
Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng trưởng mạnh là do có sự dịch chuyển nhiều đơn hàng lớn từ các nước vào Việt Nam. Ngoài ra, thời gian qua Việt Nam đã ký nhiều hiệp định thương mại với nhiều nước và theo lộ trình thuế xuất nhập khẩu các mặt hàng giảm dần về 0%. Trong đó, mặt hàng gỗ đang hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan khi xuất khẩu. Đây chính là yếu tố hấp dẫn và thu hút nhiều DN nước ngoài hướng vào thị trường xuất khẩu gỗ của Việt Nam.

Ông Nguyễn Chiến Thắng - Giám đốc điều hành Công ty Scansia Pacific:
Cơ hội để tiếp cận công nghệ cao
Hiện đang là cơ hội để ngành gỗ chế biến Việt Nam mở rộng thị trường và thị phần xuất khẩu. Hơn nữa, những nhà xưởng công ty chế biến gỗ của các nước Âu Mỹ đều là thiết bị tiên tiến, ông chủ của những doanh nghiệp này sẵn sàng bán lại cho DN Việt Nam, đồng thời cử chuyên gia sang đào tạo, huấn luyện và vận hành thời gian đầu. Đây là cơ hội để DN Việt Nam có điều kiện tiếp cận các thiết bị mới nhất của ngành chế biến gỗ các nước tiên tiến với giá vừa phải.

Chia sẻ cùng bạn về trái cây, rau củ Việt Nam: Hái trái non

Trong khi hàng hóa của Việt Nam còn quá nhỏ lẻ, manh mún, nên rất khó khăn cho DN. Khi nhắc đến thương hiệu rau củ quả Việt Nam là phải nhắc đến sự kết hợp đồng bộ của "bốn nhà” gồm: Nhà nước - nhà khoa học - nhà nhà nông - nhà DN. Thiếu một trong 4 yếu tố đó, xem như không thành công.Nói thêm về vấn đề thương hiệu nông sản Việt, bà Vân cho rằng, đây là bài toán quốc gia. Ở những nước phát triển, họ có quy hoạch rõ ràng, đã là ngành trọng điểm của quốc gia, nhà nước phải đứng ra hỗ trợ để xây dựng thương hiệu. Nhưng khi xây dựng ngành phải nói đến xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng... để DN có thể làm ăn được.
Laba Đà Lạt: Nỗi buồn "đơn thân"
Với thương hiệu "Laba Đà Lạt", chuối của Công ty TNHH Laba Đà Lạt được xem là quá may mắn so với nhiều loại củ, quả vẫn âm thầm xuất ngoại. Nhưng dù "hữu danh" thì trái chuối Laba Đà Lạt vẫn trầy trật tìm đường ra thị trường...
Năm 2011, chuối thương hiệu Laba Đà Lạt của Công ty TNHH Laba Đà Lạt lần đầu tiên được xuất sang thị trường Úc. Thông tin này đã làm nhiều doanh nghiệp (DN) trong ngành xuất khẩu nông sản ngỡ ngàng, bởi đây được xem như một "kỷ lục" của trái cây Việt Nam, cụ thể là trái chuối.
Đặc biệt, nếu biết rằng đặc sản của vùng đất Lâm Đồng này mới chỉ được "phục tráng" trong vòng ba năm, sau quãng thời gian dài bị nông dân phá bỏ do không có giá trị kinh tế cao.
Thời gian đầu, khi chuối Laba Đà Lạt được chào hàng qua các diễn đàn nông sản quốc tế, rất nhiều khách hàng đã yêu cầu gửi hàng mẫu. Sau khi dùng thử, đa phần khách hành đều muốn đến xem trang trại chuối tại Việt Nam và sau đó đặt hàng.
Theo ông Lê Sĩ Công, Giám đốc Công ty TNHH Laba Đà Lạt, hầu hết khách hàng đánh giá rất cao, nên việc cạnh tranh về giá cũng không còn là thách thức dù chuối Philippines bán tại cảng theo giá FOB là 5.000 - 6.000 đồng/kg, trong khi chuối Laba có giá tới hơn 10.000 ngàn đồng/kg. Những tưởng khởi đầu suôn sẽ tạo đà cho chuối Laba Đà Lạt mạnh bước ra thị trường thế giới, nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại.

"DN chúng tôi gặp nhiều khó khăn hơn thuận lợi. Cụ thể, khó khăn về vùng nguyên liệu manh mún, nhỏ lẻ, không ổn định làm chi phí vận chuyển tăng cao, tổn hại đến gần 50% sản lượng thu hoạch mỗi ngày. Chuối Laba chỉ trồng được ở xứ lạnh như Lâm Đồng. Tuy nhiên, chỉ có những vùng như Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh mới cho chất lượng trái tốt nhất. 90% diện tích đất Lâm Đồng ưu tiên cho cây cà phê, chè, nên để khuyến khích nông dân đầu tư vào chuối là một quyết định mạo hiểm, ít người dám làm", ông Công chia sẻ.Theo ông Công, chiến lược của Công ty là 100% xuất khẩu. Thế nhưng, sau gần 6 năm phục tráng và phát triển chuối Laba Đà Lạt, ông nhận ra, để một sản phẩm nông sản Việt Nam được chính danh ở thị trường quốc tế không hề đơn giản.
Một khó khăn khác là "hợp đồng giao ước", cụ thể Laba Đà Lạt vẫn chưa có chế tài đối với các trường hợp nông dân nhận giống từ Công ty nhưng lại bán chuối cho thương lái Trung Quốc với giá cao.
"Từ năm 2012 đến năm 2013, chúng tôi giao giống cho nông dân và mua lại với giá 6.000 đồng/kg, thương lái Trung Quốc qua mua 8.000 đồng/kg, nông dân bán hết cho Trung Quốc mà Laba vẫn không có một chế tài nào để áp dụng với nông dân. Vì thế, về lâu dài Laba Đà Lạt vẫn muốn hợp tác với các DN có quỹ đất lớn, một mặt để chất lượng trái chuối được đồng bộ hơn, tiết giảm chi phí vận chuyển, hư hỏng, mặt khác để có sự an toàn về số lượng sau thu hoạch", ông Công nói.
Công ty Laba Đà Lạt tiên phong trong việc trồng, khôi phục cây chuối Laba và góp phần khẳng định giá trị của chuối Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để có được thành quả này, DN buộc phải nỗ lực, từ khâu phát triển giống, phát triển vùng trồng, thu gom, bảo quản, chế biến đến tìm thị trường... Nhưng càng làm, Laba Đà Lạt càng nhận ra "không thể đơn thân mãi được".
Năm 2013, Công ty xuất khoảng 10 container ra thị trường Nhật, Đức và Nga. Tháng 8/2013, Laba Đà Lạt mới chính thức đặt chân tới thị trường Nhật với container đầu tiên trong hợp đồng khoảng 30 container, tương đương 600 tấn. Dù rằng, thu hoạch chuối một ngày đôi khi lên đến vài chục tấn, nhưng không phải lúc nào cũng đủ hàng xuất đi.
Theo ông Công, nhiều khi phải bỏ đơn hàng do không đủ một container khoảng 20 tấn, vì chuối thu về bị dập, hỏng do khâu vận chuyển. Hiện nay 80% sản lượng xuất khẩu của DN là từ vùng nguyên liệu bao tiêu của nông dân với khoảng 40ha, 20% còn lại là từ vùng nguyên liệu có diện tích 6ha của DN.
"Do đó, dù đã tạo được thương hiệu nhưng DN vẫn cần sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, nhất là việc định hướng vùng nguyên liệu. Trong đó, việc sản xuất hợp tác phải có ràng buộc rõ ràng DN mới tiến hành chuyển giao kỹ thuật.
Vì chuối nông dân trồng rất nhiều, nhưng không phải ai cũng trồng đúng kỹ thuật, đạt chất lượng xuất khẩu. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến trái cây được mùa nhưng vẫn bán rẻ ở thị trường nội địa chứ không thể xuất khẩu được là vậy", ông Công giải thích.
Giá rẻ cho nông sản sạch?
Thời gian gần đây, hệ thống các hàng rau - củ - quả theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP hay Organic xuất hiện tại các thành phố ngày càng nhiều. Dù chỉ mới manh nha nhưng việc khẳng định tên tuổi cho nông sản Việt Nam bằng hệ thống cửa hàng nông sản sạch đang được nhiều DN chăm chút.
Bài toán nông sản sạch, giá mềm đang được xem là thách thức lớn, bởi chi phí đầu tư, công sức DN bỏ ra là không hề nhỏ. Nhiều DN trong ngành đã bỏ cuộc, đóng cửa sau thời gian đầu tư trang trại theo mô hình nông sản xanh, sạch do không có đầu ra vì giá thành cao.
Theo bà Nguyễn Phi Vân, ở nước ngoài rau quả rất rẻ, vì như ở Mỹ, Úc... chỉ đi một kênh từ nông trại đến thẳng tay người tiêu dùng, qua một DN bao tiêu đầu ra. Trong khi ở Việt Nam, chế tài ràng buộc chưa có và sản phẩm từ người nông dân đến người tiêu dùng phải qua quá nhiều trung gian, dẫn đến mức giá chênh lệch cao.
Vấn đề này đang dần được cải thiện khi kênh bán hàng rau quả được trồng theo chuẩn VietGAP, GlobalGap hay Organic... ra đời, khi nhà đầu tư trực tiếp phân phối sản phẩm bao tiêu cho người nông dân. Tuy nhiên, có bao nhiêu DN làm được vấn đề này?
Hiện, thị trường TP.HCM xuất hiện một số cửa hàng chuyên về rau, củ quả sạch như: Cửa hàng Organik (Q.2, TP.HCM) của Công ty TNHH Liên doanh Organik, hệ thống cửa hàng Đà lạt Gap của Công ty TNHH Đà Lạt GAP, cửa hàng Organica (Q.3, Q.7) hay Hoa Sữa Foods (Q.1)... đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng đối với các loại thực phẩm sạch.
Tuy nhiên, hầu hết các cửa hàng đều tập trung ở khu vực dân cư có thu nhập cao, với giá bán ra đắt gần gấp 3 - 5 lần giá rau củ thường. Cụ thể như, các loại rau mầm, rau thơm có giá lên đến 130.000 đồng/kg, khoai lang, cà rốt, cà chua... dao động ở mức 40.000 - 70.000 đồng/kg.
Song, không phải tất cả đều là hàng hóa trong nước mà có đến khoảng 2/3 là nhập khẩu. Theo bà Lê Thị Tú Anh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nông nghiệp GAP, việc tạo hệ thống rau củ quả sạch là cần thiết, nhưng DN phải làm sao để người tiêu dùng có rau sạch, gạo sạch với giá rẻ. "Đây mới là bài toán các DN nên giải, chứ làm rau sạch giá cao thì ai cũng làm được hết", bà Tú Anh nói.

Trong khi hàng hóa của Việt Nam còn quá nhỏ lẻ, manh mún, nên rất khó khăn cho DN. Khi nhắc đến thương hiệu rau củ quả Việt Nam là phải nhắc đến sự kết hợp đồng bộ của "bốn nhà” gồm: Nhà nước - nhà khoa học - nhà nhà nông - nhà DN. Thiếu một trong 4 yếu tố đó, xem như không thành công.Nói thêm về vấn đề thương hiệu nông sản Việt, bà Vân cho rằng, đây là bài toán quốc gia. Ở những nước phát triển, họ có quy hoạch rõ ràng, đã là ngành trọng điểm của quốc gia, nhà nước phải đứng ra hỗ trợ để xây dựng thương hiệu. Nhưng khi xây dựng ngành phải nói đến xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng... để DN có thể làm ăn được.
Thương hiệu trái cây: Chăm bón từ rễ
Dù nổi danh là đặc sản trái cây vùng miền như xoài cát Hòa Lộc, quýt hồng Lai Vung, cam sành Tam Bình, hay nhãn lồng Hưng Yên..., song những loại trái này vẫn là những cái tên vô danh ở thị trường nước ngoài với giá bán rẻ mạt.
Theo chia sẻ của bà Trang Như, Giám đốc Công ty CP Tư vấn Xúc tiến Thương mại Sài Gòn, mỗi tháng công ty của bà xuất khẩu bình quân 150 tấn trái cây tươi. Thế nhưng Công ty lại chưa hề xuất khẩu được các loại trái cây vốn nổi tiếng ngon ở quê hương Đồng Tháp của bà.
Thăm trang trại xoài cát Hòa Lộc, một điểm sáng của tỉnh Đồng Tháp về nông nghiệp, bà Như tận mắt chứng kiến xoài sau thu hoạch được đóng sọt bán cho thương lái Trung Quốc, và chủ nhiệm HTX rất tự hào khi bán được giá cao. Tuy nhiên, khi hỏi "để giá bán cao hơn nữa thì phải làm sao", thì hầu như mọi người không ai trả lời được.
Tại một HTX nhãn ở Châu Thành, nhãn bán lẻ với giá 45.000 đồng/kg, bán sỉ hai tấn sẽ giảm 2.000 đồng/kg. "Và khi tôi hỏi bán sỉ 20 tấn thì giá ra sao, câu trả lời cũng là giảm 2.000 đồng/kg. Đây là điều tôi cảm thấy tiếc cho nông dân Việt Nam, vì họ chưa có bất cứ một khái niệm nào trong việc làm sao để bán sản phẩm có giá cao hơn.
Đây là vấn đề Nhà nước nên xem xét, đặc biệt là quan tâm khâu bảo quản trái cây sau thu hoạch, yếu tố quyết định 20% - 30% giá trị thành phẩm, trước khi nghĩ đến vị thế trái cây Việt Nam nơi xứ người ", bà Như nói.
Theo bà Nguyễn Phi Vân, cố vấn HĐQT Tổ chức Lãnh đạo Marketing cấp cao Khu vực châu Á - Thái Bình Dương: "Tôi đi nhiều nước và nhận thấy hầu như không ai hỏi về trái cây Việt Nam. Tuy nhiên, có người hỏi về cà phê Việt Nam vì họ biết Việt Nam xuất khẩu rất nhiều cà phê, nhưng họ cũng hỏi tại sao chưa thấy một thương hiệu cà phê Việt Nam?
Như vậy, thực tế là chúng ta không có thương hiệu, kể cả thương hiệu DN và thương hiệu quốc gia cho trái cây cũng như cà phê. Thương hiệu phải xây dựng tốt ở hai góc độ DN và quốc gia thì mới cùng lúc đi ra nước ngoài được", bà Vân phân tích. Bà Vân cho rằng, không có sự hỗ trợ từ quốc gia sẽ rất khó cho các DN tự thân xây dựng thương hiệu.
Vì trong những đánh giá về thương hiệu của các tổ chức trên thế giới có đánh giá thương hiệu quốc gia. Có thương hiệu quốc gia thì thương hiệu DN mới có thể phát triển mạnh.
Thừa nhận vấn đề này, đại diện của Công ty Linh Anh chia sẻ, nông sản Việt Nam xuất đi các nước rất khó: "Chúng tôi làm trong ngành rau củ sấy khô đã 6 năm rồi, nhưng không thể nào đáp ứng được các tiêu chí nhập khẩu!".
Từ kinh nghiệm kinh doanh chuối Laba Đà Lạt, ông Lê Sĩ Công hoàn toàn đồng tình khi cho rằng, DN muốn xây dựng thương hiệu mà không có sự hỗ trợ của Nhà nước, cụ thể như vùng nguyên liệu, thì sẽ không có kết quả.

Hiện Laba Đà Lạt vẫn là thương hiệu của tỉnh đăng ký, chúng tôi cũng rất muốn đăng ký thương hiệu quốc tế nhưng lực yếu, vùng nguyên liệu chưa nhiều. Chỉ sợ đến khi mình đủ lực thì biết đâu đã có DN nước ngoài đăng ký thương hiệu của mình rồi", ông Công lo lắng."Không có nguyên liệu tốt thì lấy đâu hàng tốt để làm thương hiệu? Đối tác tìm đến xem hàng hóa thì lấy gì cho họ xem? Trong khi trái cây muốn xuất khẩu thì phải đạt yêu cầu rất khắt khe về chất lượng.
Ngay cả việc có hỗ trợ thì vẫn phải tính toán xem hỗ trợ hình thức nào là hợp lý nhất. Chẳng hạn, bưởi Năm Roi Mỹ Hòa, thị xã Bình Minh từng được chứng nhận Global GAP vào tháng 9/2008, với sự tài trợ 40 ngàn USD từ dự án "Hỗ trợ phát triển hệ thống phân phối hàng hoá tại Việt Nam" do Bộ Thương mại, nay là Bộ Công Thương và Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức, Công ty Metro Cash & Cary Việt Nam cùng tổ chức.
Tuy nhiên, chỉ sau 1 năm, không một đơn vị nào bỏ ra khoản chi phí để tái cấp chứng nhận Global GAP này. Nguyên nhân là do chi phí cao trong khi doanh nghiệp chưa thấy hiệu quả từ việc đầu tư này. Từ đó thương hiệu của loại trái cây có múi đặc sản này sa sút. Thêm vào đó là tình trạng sâu bệnh trên cây bưởi ngày càng phổ biến, giá bán sụt giảm đã khiến cho các nhà vườn giảm đầu tư.
Mãi đến gần đây, HTX sản xuất và tiêu thụ bưởi Năm Roi Mỹ Hòa mới được củng cố lại. Ban chủ nhiệm HTX cũng đang xúc tiến những thủ tục cần thiết tiến tới đề nghị tái cấp giấy chứng nhận Global GAP. Đây sẽ là giấy thông hành để đưa trái bưởi Năm Roi Bình Minh xuất khẩu sang châu Âu.
Theo HTX thì chỉ riêng thị trường nôi địa, mục tiêu đề ra là sẽ cung ứng 100 tấn bưởi/ tháng. Tuy nhiên, do khả năng tài chính còn hạn chế nên hiện chỉ mới đáp ứng 30%, nên cần nhiều hơn sự hỗ trợ từ ngành chức năng cũng như chính quyền.

Cùng tìm hiểu về nền công nghiệp phụ trợ: Bây giờ hoặc không bao giờ


Cùng với nhà máy Samsung mới đi vào hoạt động, Việt Nam đã trở thành "cứ điểm" sản xuất của tập đoàn Samsung trên toàn cầu. Một đại diện của Samsung tiết lộ: "Ngay cả lãnh đạo Samsung tại các nước cũng thắc mắc vì sao lại có nhiều dự án tại Việt Nam đến vậy!".Việt Nam đã trở thành trung tâm sản xuất công nghệ cao của thế giới khi cứ 400 triệu điện thoại di động của Samsung được bán ra trên toàn cầu thì có 120 triệu điện thoại được sản xuất tại Bắc Ninh.

Các dự án sản xuất tại Việt Nam của Samsung tạo cơ hội rất lớn cho ngành công nghiệp phụ trợ phát triển
99% không đạt chuẩn
Thời điểm nhà máy Intel khởi công vào năm 2007, nhiều dự báo về việc hàng loạt doanh nghiệp công nghệ thế giới sẽ đổ về Việt Nam. Một trong các điều kiện để tạo nên làn sóng tương lai đó là phải có ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghệ thông tin.
Dự báo là vậy nhưng ít ai ngờ "làn sóng" này lại đến nhanh đến vậy, thu hút hàng loạt tên tuổi lớn của giới công nghệ như Samsung, Nokia, LG... đặt nhà máy sản xuất tại Việt Nam. Đặc biệt là các dự án tỷ USD của Samsung xuất hiện trong một thời gian ngắn.

Cùng với nhà máy Samsung mới đi vào hoạt động, Việt Nam đã trở thành "cứ điểm" sản xuất của tập đoàn Samsung trên toàn cầu. Một đại diện của Samsung tiết lộ: "Ngay cả lãnh đạo Samsung tại các nước cũng thắc mắc vì sao lại có nhiều dự án tại Việt Nam đến vậy!".Việt Nam đã trở thành trung tâm sản xuất công nghệ cao của thế giới khi cứ 400 triệu điện thoại di động của Samsung được bán ra trên toàn cầu thì có 120 triệu điện thoại được sản xuất tại Bắc Ninh.
Mặc dù khẳng định nhà máy Intel vẫn đang đi đúng lộ trình nhưng nhắc lại lo ngại của Tập đoàn Intel khi mới quyết định đầu tư vào Việt Nam, bà Sherry Borge, Tổng giám đốc Công ty Intel Products Việt Nam cho biết, trong số 94 nhà cung cấp nội địa hiện nay, có 20 nhà cung cấp sản phẩm trực tiếp.
Tuy nhiên, những nguyên liệu mà Intel Việt Nam nhận từ nhà cung cấp nội địa có giá trị rất thấp, mới chỉ dừng ở các loại hàng hóa dùng trong đóng gói, đồ cơ khí, hóa chất; hàng hóa tiêu dùng trong vận hành nhà máy, dùng cho bảo trì, dịch vụ...
"Trong chiến lược phát triển, vai trò của các nhà cung cấp nội địa sẽ ở vị trí cao hơn, nhưng Intel Việt Nam không chỉ mong muốn tăng số nhà cung cấp, mà các nhà cung cấp nội địa cũng phải bảo đảm các tiêu chí phù hợp với chiến lược phát triển của Công ty", bà Sherry Borge cho biết.
Tìm kiếm các nhà cung cấp nội địa cũng là vấn đề lớn của Samsung. Trả lời báo chí, ông Nguyễn Văn Đạo, Phó tổng giám đốc Samsung Vina, cho biết: "Không nhà sản xuất nào muốn nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài vì vừa mất thời gian, vừa tốn ngoại tệ, bởi thời gian đối với nhà sản xuất là vô giá. Linh kiện càng được cung cấp nhanh chóng bao nhiêu sản phẩm đưa ra thị trường càng sớm bấy nhiêu".
Mặc dù vậy, hiện nay, trong số hơn 90 nhà cung cấp sản phẩm phụ trợ cho Samsung thì chỉ có 6,7 doanh nghiệp trong nước, trong đó chủ yếu cung ứng in ấn và bao bì.
Nguyên nhân là tiêu chuẩn của Samsung đặt ra, hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều không đáp ứng được, ngay cả những linh kiện đơn giản nhất. Bà Nguyễn Thị Tuyển, đại diện Công ty TNHH Tabuchi Electric (Nhật Bản) cho rằng: Với 8 tiêu chí mà Samsung đưa ra, 99% doanh nghiệp Việt Nam không chen chân được vào chuỗi cung ứng cho tập đoàn này!
2.000 tỷ đồng liệu đã đủ?
Ông Shim Won Hwan, Tổng giám đốc tổ hợp Samsung, nhận định, thực tế công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam còn tương đối lạc hậu. Ông cũng dẫn số liệu điều tra của JETRO (Nhật Bản) so sánh, số linh kiện, nguyên phụ liệu nội địa cung ứng cho sản phẩm công nghiệp của Trung Quốc và Thái Lan chiếm 50-60%, của Việt Nam chỉ chiếm 27,8% giá trị sản lượng công nghiệp. Do vậy giá trị gia tăng của sản phẩm Việt Nam vẫn chỉ khiêm tốn ở con số từ 15 đến 30%.
Ông Shim Won Hwan cho rằng: "Không khó để nói rằng Samsung sẽ tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, dù Samsung có mở rộng quy mô đầu tư và mong muốn được đóng góp vào sự phát triển của Việt Nam đến đâu thì cần có những điều kiện làm tiền đề. Và một trong những tiền đề đó là phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực tương ứng".
Chỉ trong năm 2014, dự kiến tổng kim ngạch nhập khẩu linh kiện, phụ kiện ngành điện tử, dệt may, da giày khoảng 53,2 tỷ USD, trong khi tổng giá trị sản xuất công nghiệp của thành phần kinh tế nhà nước chỉ 40 tỷ USD. Chính phủ có chủ trương hợp tác với Nhật Bản để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, nhưng sau 14 năm triển khai vẫn chưa hình thành được 2 khu công nghiệp hỗ trợ, định hình sản phẩm vẫn còn mơ hồ.
Khó khăn của các tập đoàn như Samsung, Intel cho thấy đã đến lúc cần phải gấp rút hình thành một ngành công nghiệp phụ trợ để thúc đẩy ngành công nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam. Có thể thấy thời gian qua chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ chưa phù hợp, cũng là những nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển của ngành công nghiệp đặc thù này.
Trước hết là chính sách về vốn vay. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, lãi vốn vay hiện ở mức 8 -15%/năm là quá cao. Bên cạnh đó, do chưa có đủ nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp cả về chất và lượng, nên trình độ của doanh nghiệp không được nâng cao, khó thực hiện chuyển giao kỹ thuật.
Có tín hiệu đáng mừng khi Chính phủ đang chuẩn bị nhiều phương án hỗ trợ cho doanh nghiệp phụ trợ, như mở rộng hỗ trợ thuế, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, có chính sách ưu đãi khi thuê đất và vay vốn đầu tư...
Đại diện Bộ Công Thương cho biết, đang xây dựng chương trình phát triển công nghiệp phụ trợ thành chương trình quốc gia, sẽ có những hỗ trợ về vốn như đưa ra quỹ đầu tư công nghiệp phụ trợ 2.000 tỷ đồng...
Theo bà Sherry Boger, Intel đưa ra mục tiêu sẽ nội địa hóa 80% trong quá trình sản xuất CPU tại Việt Nam. Tuy nhiên, để làm được điều này thì bản thân các doanh nghiệp cung ứng trong nước cũng cần có sự đột phá về công nghệ để có thể cung ứng với các đối tác cung ứng mà hiện nay Intel đang làm việc.
Từ 3 doanh nghiệp Việt Nam có thể cung cấp linh phụ kiện cho Intel, sau 4 năm đã tăng lên 16 doanh nghiệp cũng là một con số đáng kể. Để lấp đầy nhà máy ATM (lắp ráp và kiểm định) của Intel ở Thành Đô (Trung Quốc) phải mất 15 năm hay nhà máy tại Malaysia mất 40 năm mới có những sản phẩm như nhà máy của Việt Nam. Vẫn biết là cần phải có thời gian nhưng hy vọng Việt Nam không lỡ bước thêm 20 năm nữa trong phát triển ngành công nghiệp phụ trợ.

Khám phá quá trình tái cấu trúc thị trường xuất khẩu


Do đó, DN phải thay đổi nhận thức về hoạt động XK. DN muốn cạnh tranh được với hàng hóa nước ngoài, trước hết phải có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước về chất lượng và giá cả.Cụ thể, trong hai năm 2014 - 2015, Việt Nam sẽ hoàn tất đàm phán và ký kết hàng hoạt hiệp định thương mại tự do như EU-VN, TPP, ASEAN... Như vậy, từ năm 2016 trở đi, Việt Nam hội nhập toàn diện với thị trường nhiều khu vực trên thế giới. Khi đó, hàng rào thuế quan hầu như được dỡ bỏ và thuế suất nhập khẩu nhiều loại hàng hóa chỉ còn từ 0-5%.

Bất cập tăng trưởng xuất khẩu
Theo Bộ Công Thương, sau 7 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đã tăng từ 84,7 tỷ USD lên 264,4 tỷ USD vào năm 2013. Trong đó, XK tăng từ 39,8 tỷ USD lên 132,1 tỷ USD. Riêng ba năm (2011 - 2013), kim ngạch XK hàng hóa nước ta đã tăng 22,3%, nhanh hơn 4 lần tốc độ tăng GDP.
Thị trường XK của Việt Nam mở rộng đến gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung chủ yếu ở 5 thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật, ASEAN và Trung Quốc. Tám tháng đầu năm nay, kim ngạch XK cả nước ước đạt 96,98 tỷ USD, tăng 14,1% so với năm 2013 và xuất siêu đạt 1,69 tỷ USD. Có đến 24 mặt hàng đạt kim ngạch XK trên 1 tỷ USD, chiếm đến 86% tổng kim ngạch XK.
Phát biểu tại Diễn đàn xuất khẩu 2014 với chủ đề "Định hướng thị trường và sản phẩm xuất khẩu" do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) tổ chức ngày 12/9 tại TP.HCM, TS. Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Quốc hội, cho rằng, mặc dù XK hàng hóa tăng trưởng mạnh nhưng vẫn còn nhiều bất cập.

Đó là chưa kể đa phần sản phẩm của DN trong nước XK dưới dạng thô, sơ chế hoặc gia công nên giá trị gia tăng thấp. Đã vậy lại không có sự đồng bộ giữa XK và phát triển thị trường nội địa. Đơn cử như năm 2013, XK gạo đạt 3,5 tỷ USD nhưng Việt Nam phải nhập khẩu tới 3,7 tỷ USD thức ăn chăn nuôi...Chính sách kinh tế hướng vào XK vẫn là một trong những trụ cột của chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam nhưng chỉ có doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) XK ổn định dựa vào uy tín của công ty mẹ tận dụng được cơ hội này. Hầu hết các DN trong nước chưa có thị trường ổn định, năng lực cạnh tranh và sản phẩm đều thấp, XK qua trung gian nên hạn chế khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường.
Ở góc độ DN, ông Trần Việt Anh, Phó chủ tịch Hội Cao su - Nhựa TP.HCM, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Xuất nhập khẩu Nam Thái Sơn, cho biết, khó khăn lớn nhất của DN XK là thiếu thông tin thị trường, nguyên liệu và công nghệ, thiết bị đang bị phụ thuộc.
Nhờ những hiệp định song phương và đa phương về thương mại mà Việt Nam đã và đang ký kết đàm phán trong thời gian tới, nhiều cơ hội thị trường được mở ra cho hàng xuất khẩu Việt Nam nhưng cùng với đó, DN cũng cần thông tin thị trường kịp thời để không bị lệnh lạc.
Bà Phó Nam Phượng, Giám đốc ITPC, cũng thừa nhận thông tin thị trường cập nhật kịp thời là nhu cầu cấp bách của các DN hiện nay. Qua hơn 20 cuộc gặp gỡ, trao đổi với các hiệp hội DN, hội chuyên ngành, các DN XK trên địa bàn thành phố thì nhu cầu về thông tin thị trường là quan tâm hàng đầu khi tìm kiếm thị trường XK mới.
Tái cấu trúc thị trường
Muốn phát triển XK bền vững, cần đẩy mạnh hơn nữa tái cấu trúc thị trường. TS. Trần Du Lịch, cho rằng: "Đẩy mạnh tái cấu trúc thị trường XK là một trong những giải pháp then chốt để phát triển và mở rộng thị trường XK của Việt Nam trong thời gian tới. Theo đó, các DN cần đa dạng hóa thị trường nhằm tránh tình trạng "bỏ trứng vào một giỏ”, tránh việc kích thích tâm lý sử dụng các công cụ bảo hộ phi thuế quan của nước sở tại như hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá...".
Cụ thể, vẫn tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa sản phẩm ở 5 thị trường lớn nhất hiện nay là EU, Mỹ, ASEAN, Nhật Bản và Trung Quốc. Việc mở rộng thị trường các nước thành viên đang đàm phán Hiệp định đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) cần có giải pháp đồng bộ của Chính phủ để giúp DN tiếp cận.
Cũng theo TS. Trần Du Lịch, mục tiêu XK không nên tách biệt với thị trường nội địa. Nền ngoại thương của một quốc gia, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới phải hoạt động trong điều kiện xóa bỏ hàng rào thuế quan hai chiều, nên không có ranh giới giữa thị trường nội địa và XK.

Do đó, DN phải thay đổi nhận thức về hoạt động XK. DN muốn cạnh tranh được với hàng hóa nước ngoài, trước hết phải có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước về chất lượng và giá cả.Cụ thể, trong hai năm 2014 - 2015, Việt Nam sẽ hoàn tất đàm phán và ký kết hàng hoạt hiệp định thương mại tự do như EU-VN, TPP, ASEAN... Như vậy, từ năm 2016 trở đi, Việt Nam hội nhập toàn diện với thị trường nhiều khu vực trên thế giới. Khi đó, hàng rào thuế quan hầu như được dỡ bỏ và thuế suất nhập khẩu nhiều loại hàng hóa chỉ còn từ 0-5%.
Chiến lược XK cần gắn liền với việc khai thác thế mạnh về nông nghiệp để từ đó tổ chức lại sản phẩm nông nghiệp phù hợp với quá trình hội nhập thế giới, đáp ứng cho XK. Các DN nên tiếp tục mở rộng quy mô thị trường cũng như tập trung giải pháp XK tại chỗ, đặc biệt khai thác tiềm năng du lịch lớn của Việt Nam.
"Vấn đề của chúng ta không phải là XK sản phẩm gì mà là làm thế nào để tạo ra sự khác biệt của sản phẩm để cạnh tranh. Đây chính là thách thức đối với việc mở rộng thị trường XK. Và trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, để giúp DN củng cố được thị trường cũ, mở rộng thị trường XK mới cần có vai trò hỗ trợ của Chính phủ và các hiệp hội ngành nghề có liên quan", TS. Trần Du Lịch nhấn mạnh.
Cùng quan điểm này, ông Herb Cochra, Giám đốc Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (Amcham), cho rằng, sắp tới đây, khi TPP được ký kết, DN Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn. Bên cạnh kim ngạch xuất nhập khẩu tăng thì vốn FDI chảy vào Việt Nam nhiều hơn, từ đó, các DN Việt Nam sẽ gắn kết mạnh hơn với chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo đà để thúc đẩy năng suất.
Tuy nhiên, để đón nhận cơ hội này, Chính phủ cũng như các DN Việt Nam phải quyết liệt hơn trong thực hiện tái cấu trúc thị trường và sản phẩm XK thông qua các giải pháp đồng bộ.